LTS: Trong số báo trước, tác giả Sơn Văn đã phân tích những số liệu thống kê - cả “dễ hiểu” lẫn “khó hiểu” - về cái nghèo và c...
LTS: Trong số báo trước, tác giả Sơn Văn đã phân tích những số liệu thống kê - cả “dễ hiểu” lẫn “khó hiểu” - về cái nghèo và cái dốt của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, để có một cái nhìn thực chất về những vấn đề nhức nhối ấy của một vùng đất trù phú. Bài viết sau đây đề cập những nhu cầu cụ thể của người dân khu vực này, để thấy gánh nặng cho tiêu dùng, học hành, y tế đổ xuống người dân là rất lớn.
Đời sống người dân: chưa có một cái nhìn tổng thể
Con người có tám nhu cầu căn bản: ăn uống, mặc, ở, đi lại, học hành, trị bệnh, giải trí và làm việc. Hằng năm, các tỉnh ĐBSCL đều có thực hiện các cuộc điều tra mẫu về thực trạng của một số nhu cầu trên, nhưng chủ yếu là về mặt làm việc (sản xuất nông lâm ngư nghiệp) và nhà ở, vì gắn liền với thành tích của địa phương; các nhu cầu khác thường không được điều tra, hoặc có điều tra thì cũng 5-7 năm một lần, đôi khi chép lại kết quả điều tra của lần trước.
Nhìn chung, ĐBSCL chưa có được một cái nhìn tổng thể về đời sống của người dân và sự tiến triển của đời sống đó qua các năm hoặc từng giai đoạn phát triển kinh tế.
Các bác sĩ Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP.HCM trong buổi khám bệnh miễn phí cho người dân tỉnh Đồng Tháp - Ảnh: Công Thương |
Trước đây khoảng hai năm, Viện Chiến lược phát triển nông nghiệp có làm một nghiên cứu về tam nông (nông nghiệp, nông thôn, nông dân) quy tụ nhiều tiến sĩ, nhiều chuyên gia..., nhưng chủ yếu là đề cập đến các mối quan hệ để đưa ra một chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn. Còn chủ thể của hai vấn đề này là nông dân, đặc biệt là nông dân ĐBSCL - một vùng nông nghiệp rộng lớn và đa dạng nhất nước - trong đó cuộc sống của họ hiện nay ra sao để từ đó có giải pháp thăng tiến cuộc sống của họ, lại rất ít được đề cập, vì thiếu các dữ liệu điều tra, và nhất là vì hình như rất ít trong số các vị tiến sĩ, chuyên gia đó chưa hoặc ít sống thực với nông dân, ít tìm hiểu thấu đáo về đời sống nông dân. Nhiều kết luận và giải pháp còn chung chung, nên đến nay cũng chưa giúp ích gì cho các tỉnh ĐBSCL trong định hướng và thực hiện.
Một cuộc khảo sát gần đây của các chuyên viên Trung tâm Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho thấy, đồng thời với sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người từ khoảng 250 USD năm 1999 lên khoảng 350 USD năm 2009 (giá so sánh 1994), cùng với những đầu tư của Nhà nước về điện, giao thông nông thôn, khu cụm công nghiệp, nông dân ĐBSCL cũng đã có những chuyển biến căn bản trong tiêu dùng cho cuộc sống. Tỷ lệ tiêu dùng/thu nhập giảm từ khoảng 94,2% còn trên dưới 88%, cho thấy nông dân đã tăng được khả năng tiết kiệm để đầu tư từ khoảng 5,8% lên đến 12%.
Những chuyển biến trong nhu cầu
Cơ cấu tiêu dùng bình quân của nông dân đã chuyển biến khá rõ nét ở một số tám nhu cầu căn bản:
Nhu cầu | 2000 | 2005 | 2009 |
Ăn uống | 55,0% | 49,8% | 43,0% |
Mặc | 6,0% | 6,4% | 7,0% |
Ở | 7,5% | 7,8% | 8,0% |
Đi lại | 10,0% | 10,5% | 11,0% |
Học hành | 9,5% | 10,0% | 11,0% |
Trị bệnh | 5,2% | 5,6% | 6,5% |
Giải trí | 1,0% | 1,2% | 1,5% |
Trang bị sản xuất và sinh hoạt | 5,8% | 8,7% | 12,0% |
Trong cơ cấu nêu trên, trong khi tỷ trọng chi tiêu cho ăn uống có khuynh hướng giảm nhanh, chi tiêu cho ở có khuynh hướng tăng chậm, thì tỷ trọng chi tiêu cho học hành, trị bệnh và đi lại tăng nhanh.
Về chi tiêu cho ăn uống, mặc dù thường bị mang tiếng là thích ăn nhậu, ngày nay nông dân đã bớt nhiều thói quen giữ lúa mà bán lúa mua gạo để ăn, lại bớt ăn gạo để chuyển sang ăn lương thực chế biến như bún tươi, bún khô, mì, mì ăn liền, miến, hủ tiếu khô... thực phẩm cũng chuyển dần sang dùng thực phẩm chế biến. Điển hình là trong ba năm gần đây, nông dân giảm bớt uống rượu trắng pha chế từ cồn mà uống rượu Phú Lễ chuối hột, rượu Long An đóng chai... có chất lượng hơn, an toàn hơn. Hay như dầu ăn đã thay thế dần cho mỡ heo...
Đây là cơ hội cho các ngành chế biến lương thực thực phẩm phát triển. Làm thế nào để đưa hàng về nông thôn với giá rẻ, chất lượng đảm bảo vệ sinh, an toàn, không phải chỉ là trách nhiệm của các doanh nghiệp mà còn là của Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, những đơn vị có trách nhiệm đối với phát triển nền kinh tế và xuất khẩu, phát triển “tam nông”. Giảm tỷ trọng nhanh trong ăn uống đồng nghĩa với giảm tệ nạn nhậu nhẹt, tăng tiết kiệm cho đầu tư sản xuất, đầu tư cho học hành thuốc men, tăng chất lượng cuộc sống.
Về chi tiêu cho ở, tỷ trọng và giá trị tuyệt đối tăng đều. Trong 10 năm qua, tỷ lệ nhà tạm (giá trị sử dụng dưới 10 năm - nhà ba xác lá) đã giảm từ khoảng 45% xuống khoảng 20%, nhiều huyện chỉ còn 10%. Tại các xã vùng ven biển, các loại nhà ngói (nhà lúa), nhà đỏ cam (nhà tôm), nhà xanh lá cây đậm (nhà cua) được xây dựng ngày càng nhiều. Tại các thị trấn, các khu dân cư mới được hình thành với đa số là nhà kiên cố (trên 20 năm), một số nhà bán kiên cố (dưới 20 năm).
Nhiều khu dân cư vượt lũ, với đầu tư lớn của Chính phủ, đã được xây dựng, tuy còn nhiều điều đáng nói, nhưng đã bắt đầu thay thế được các ngôi nhà tạm bợ (nhà đá, nhà đạp). Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là đầu tư trong dân cho nhà ở. Mơ ước ngàn đời của nông dân ĐBSCL là ngôi nhà ngói, mục đích gần nhất là hứng được nước trời mưa sạch trong cho ăn uống.
Do đó, khi thu nhập tăng thì họ lo dành dụm để cất nhà ngói, dù là khung sườn gỗ cũng được. Tệ lắm cũng là khung gỗ lợp tôn. Đáng buồn là hiện nay vẫn chưa có tín dụng nhà ở cho nông dân để tăng nhanh số lượng nhà bán kiên cố, kiên cố. Giảm nhà tạm, tăng chất lượng ở, đồng nghĩa với an cư cho lạc nghiệp.
Học hành và trị bệnh thực sự là gánh nặng
Về chi tiêu cho học hành, tuy tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi ở các cấp vẫn còn thấp hơn bình quân của cả nước nhưng mức chi tiêu cho con cái học hành ở ĐBSCL vẫn ngày càng tăng, do chủ trương “xã hội hóa” (dù cũng có chính sách miễn giảm học phí, miễn giảm đóng góp cơ sở vật chất). Không ít hộ nông dân, nhất là tại các xã nghèo, đã phải cho một số con nghỉ học bớt, hoặc để giảm chi tiêu, hoặc để tăng thêm lao động, nhưng mức giảm chi tiêu không theo kịp mức tăng của học phí và chi phí học khác.
Báo chí cũng đã từng nêu nhiều trường hợp cha mẹ phải bán ruộng vườn để cho con ăn học. Kết quả là chi tiêu học hành tăng cả về tỷ trọng lẫn về thực số. Do đó, “xã hội hóa” triệt để, nếu không theo sát tình hình thực tế của địa phương, thường làm gia tăng số học sinh bỏ học, làm sụt giảm trình độ học vấn của vùng so với cả nước, nhất là đối với các xã còn tỷ lệ nghèo cao.
Hỏi: Thế tại sao 13 tỉnh không sử dụng ngân sách dôi dư hằng năm để tài trợ cho giáo dục đến hết cấp trung học cơ sở theo đúng ý nghĩa của hai chữ phổ cập, mà cứ phải trông chờ vào chủ trương vừa chậm, vừa cào bằng của Bộ Giáo dục và Đào tạo? Nếu không đầu tư cho con người thế hệ mai sau thì thành quả phát triển của ngày hôm nay cũng chỉ là “bong bóng”.
Về chi tiêu cho trị bệnh, tỷ trọng vừa cao vừa tăng qua các năm vì ĐBSCL là nơi xảy ra nhiều dịch bệnh, ngộ độc. Cũng giống như học hành, có thể thấy qua các số liệu thống kê của các Phòng y tế cấp huyện, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi, tỷ lệ trẻ chết dưới 1 tuổi, tỷ lệ bà mẹ chết sau khi sinh... đều còn khá cao.
Cũng có thể thấy tại các bệnh viện chuyên môn tại TP.HCM nhiều bệnh nhân từ ĐBSCL nằm chen chúc trên giường bệnh, nhiều thân nhân lê la ở hành lang, nhiều gia đình đã phải bán hết ruộng vườn để trị bệnh cho thân nhân, có lẽ cũng chỉ vì “xã hội hóa” quá triệt để! Ai đã từng đi trị bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế chắc cũng “nghe rõ và thấu hiểu” cảnh bệnh nhân bị các y tá bạc đãi, bác sĩ ít quan tâm hơn là trị dịch vụ. Hỏi: y đức bây giờ tệ như vậy sao, nhà thương công bây giờ mất tính xã hội của thời bao cấp rồi sao, hóa ra bao cấp mà tốt hơn sao?
Đầu tư cho học hành và trị bệnh chắc chắn không phải chỉ là trách nhiệm của người dân, mà còn phải xuất phát từ Chính phủ, từ các doanh nghiệp có mặt trên địa bàn, vì con người là chủ thể của phát triển đất nước, là lao động tiềm năng của các doanh nghiệp. Có biết bao nhiêu tiền đã đổ vào các lễ hội, chùa chiền... nhưng có biết bao nhiêu trường trung học cơ sở, tiểu học, mầm non, bệnh viện, phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế vẫn chưa đạt chuẩn.
Có nên chăng đừng xã hội hóa triệt để, có nên chăng các doanh nghiệp hằng năm trích quỹ phúc lợi và khen thưởng cho giáo dục và y tế cho địa phương, hoặc trực tiếp chỉnh trang, nâng cấp hoặc xây mới trường học, trạm y tế cho các xã còn nghèo như Quỹ Hỗ trợ Cộng đồng Lawrence S. Ting đang làm cho huyện Mỏ Cày Bắc (tỉnh Bến Tre), có nên chăng ngân sách giáo dục, y tế của Chính phủ cần... rộng tay hơn cho nông dân được nhờ, theo đúng tinh thần phát triển tam nông.
Theo SƠN VĂN
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần